Sau nạn khai thác san hô ở xã Vạn Hưng (huyện Vạn Ninh, Khánh Hoà), môi trường sinh thái, thuỷ hải sản khu vực dần cạn kiệt. Rạn san hô Rạn Trào trở thành một “cánh rừng” sót lại dưới lòng biển bị tổn thương. Cách đây mười năm, người dân xã Vạn Hưng đã tự nguyện lập quy ước cùng “bám biển” bảo vệ Rạn Trào.
Đến nay, tín hiệu “rừng” đang dần hồi sinh. Tuy nhiên, nếu nhìn rộng hơn, Rạn Trào chỉ như một đốm lửa có thể tắt bất cứ lúc nào khi xung quanh các hoạt động xâm hại môi trường vẫn đang diễn ra hàng ngày vì bài toán mưu sinh.
Chỉ rộng khoảng 90ha, nhưng Rạn Trào đang chứa 82 loài san hô, 69 loài cá rạn, sáu loài cỏ biển và năm loài cây ngập mặn. Rạn Trào cũng là một trong những nơi sinh trưởng, cung cấp nguồn giống tự nhiên các loài hải sản có giá trị, như tôm hùm, cá mú, hải sâm, ốc nhảy, tu hài cho toàn vịnh Vân Phong…
Ông Nguyễn Cường, một trong những người dân đầu tiên tự nguyện ra biển bảo vệ rạn, tự hào nói: không giống như 15 năm về trước, 85% người dân xã đã ý thức được rạn san hô có ý nghĩa quan trọng như thế nào đến mưu sinh của mình.
Từ hấp hối
Ông Nguyễn Văn Chim, thôn Xuân Tự 2, cũng là một trong những người đầu tiên tự nguyện ra biển canh rạn san hô, nhớ lại: từ những năm 1990, dân địa phương cùng người ở khắp nơi kéo về đây nuôi tôm hùm đã tận diệt san hô không thương tiếc. Người đi đánh bắt hải sản cũng làm chết san hô không biết bao nhiêu. Chưa kể, hậu tích của những năm 1976, sư đoàn 333 đã từng về Cồn Mao, phía nam xã Vạn Hưng khai thác san hô hàng loạt, để đem lên Tây Nguyên làm phân bón cho cây càphê… Cả một vùng “rừng” dưới đáy đại dương tan hoang.
Thuỷ hải sản dần mất đi. Người đánh bắt không chỉ ngày một nhiều mà họ còn tận diệt, sử dụng mìn, chất độc, không tha cả cá nhỏ, cá đang mang trứng. Xã Vạn Hưng đã từng có 3 – 4 người bị cụt tay, cụt chân vì dùng mìn đánh bắt hải sản. Tang thương hơn, hai người đã chết vì lý do này… Là dân đánh bắt, ông Nguyễn Cường nói, ông thấy cá mất dần mà xót, đâm ra lại tiếc nhớ những năm trước đây. Cách đây 15 năm, chỉ cần chạy ghe ra biển bốn tiếng đồng hồ đã có thể bắt được 30 – 40kg ghẹ, còn bây giờ nhiều lắm chỉ được 2 – 3kg ghẹ. Ông nói, ông chỉ sợ đến một ngày, con cháu mình lại hỏi “con cá chỗ đó như thế nào?”
Đến năm 2000, một nhóm chuyên gia nước ngoài thuộc trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng (MCD) về Vạn Hưng khảo sát. Họ lý giải với dân: dưới đại dương, rạn san hô được xem như những cánh rừng xanh trên cạn. Điều đó khiến những người nặng lòng với biển như ông Cường, ông Chim nghiệm ra rằng, san hô là cả một hệ sinh thái đa dạng, là lá phổi, vùng sinh sống của vô số loài. Vậy thì giữ được san hô tức là giữ được các loài thuỷ hải sản cho vùng!
Khi biết MCD sẽ lập dự án bảo tồn sinh vật biển tại đây, ngay đêm hôm sau, ông Cường đã cùng vợ tự nguyện chạy ghe ra biển giữ rạn san hô Rạn Trào còn sót lại. Từ đó, nhiều người dân xã bắt đầu những ngày chia nhau ra biển canh rạn, không để người khác vào đây đánh bắt cá, phá “rừng”. Cứ bền bỉ vậy suốt ba tháng, cho đến khi một đội hạt nhân bảo vệ Rạn Trào chính thức được thành lập, theo bình bầu tin tưởng của người dân. Mô hình bảo tồn biển do cộng đồng quản lý đầu tiên, và cho đến nay vẫn là duy nhất của Việt Nam, ra đời, với sự hỗ trợ kỹ thuật của MCD.
Đến hồi sinh
Rạn Trào nằm sâu dưới nước khi thuỷ triều lên. Lúc thuỷ triều xuống, cả một vùng lại nổi lên như một hòn đảo, đủ loài san hô. Vùng lõi rộng 27ha, 98ha nối tiếp là vùng đệm. Một bản quy chế được người dân họp bàn đưa ra: mọi hoạt động đánh bắt, nuôi trồng đều bị cấm ngặt ở đây. Không ai được phép đem đi bất cứ thứ gì ở đây, dù chỉ là một vỏ ốc; cũng không ai được phép để lại bất cứ vật gì ở lại. Những hoạt động đánh bắt, nuôi trồng phải cách vùng đệm ít nhất 200m… Người vi phạm không chỉ bị đưa đến cơ quan chức năng phạt hành chính mà còn bị kiểm điểm trong họ tộc, phê bình trước toàn bà con trong xã.
Ông Cường bảo, những ngày đầu ra bảo vệ “trời ơi là khó”, nhất là với dân xã khác. Vùng san hô vốn là nơi cho những người nghèo đánh bắt dựa vào mưu sinh nên xảy ra chuyện đánh nhau với “hải tặc” là không tránh khỏi… Ngày nào cũng như ngày nào, dù đêm hay ngày, mưa bão hay nắng ấm, mỗi ngày đều có hai người dân ra vùng “đảo” canh giữ 24/24 giờ, không để người xã mình, xã khác xâm phạm. Cứ hai năm, đội hạt nhân lại được dân bình bầu lại, thêm người mới vào. Không ai nản lòng, dù người trong đội chỉ được hỗ trợ 300.000 đồng/tháng/người, cộng thêm 20 triệu/năm/đội là tiền xăng dầu.
Không chỉ “bám biển” bảo vệ rạn san hô, chính dân còn là người nuôi trồng, cấy san hô, hải sâm… nhằm phát triển sinh thái cho vùng, với những ý tưởng rất “thuần dân” của mình. Theo mô hình bảo tồn biển ở nhiều nước, người ta dùng giá thể bằng ximăng để cấy san hô, không đạt mấy hiệu quả, và khi đưa về Rạn Trào, phương pháp này cũng thất bại. Ông Chim đã nảy ra ý tưởng dùng san hô chết trong tự nhiên làm giá thể để cấy san hô, dùng sợi cước giữ san hô thay sợi kẽm để tránh bị oxy hoá trong nước. Lúc ý tưởng mới được đưa ra, chẳng ai tin, ngay cả các nhà khoa học. Nhưng sau nhiều tháng thử nghiệm, san hô cấy sống đến 80 – 90%! Vậy là thành công…
Ròng rã đến nay đã được mười năm trời. Dân trong xã không còn ai vi phạm vùng bảo vệ. Chuyện đánh bắt cá bằng mìn, chất độc cũng không còn. Khảo sát mới đây nhất của viện Hải dương học Nha Trang cho thấy, so với những ngày đầu mới thành lập khu bảo vệ rạn san hô Rạn Trào, từ 0,3 loài/m2 đến nay đã tăng lên 3 loài/m2, gấp mười lần; tăng từ 78 loài san hô lên 82 loài… Còn ngư dân ở đây thì bảo, các loài thuỷ hải sản bên ngoài quanh vùng đệm đã nhiều lên, đánh bắt được khá hơn chứ không “hẻo” như xưa. Sáng thức giấc, có những khu vực có thể nhìn thấy bằng mắt thường cá tràn vào 4.000 – 5.000 con rồi…
Theo SGTT.VN